Lữ Giang
Như chúng tôi đã nói nhiều lần, khi các tài liệu căn bản về chiến tranh Việt Nam đã được công bố gần hết, chúng ta không còn có thể ngồi viết hay nói theo cảm tính, tức theo ý muốn của mình được nữa, vì các thế hệ tới, nhất là các sử gia, sẽ không viết lịch sử chiến tranh Việt Nam theo như chúng ta nghĩ hay muốn, mà viết căn cứ vào các tài liệu lịch sử đã được công bố. Mọi cố gắng tô hồng hay bôi đen theo cảm tính trong suốt 40 qua sẽ trở thành vô nghĩa.
Về vai trò của Tổng Thống Ngô Đình Diệm cũng vậy, thời kỳ biểu hiện cảm tính bằng cách hoan hô hay đá đảo Ngô Tổng Thống đã qua rồi, bây giờ đến giai đoạn phải làm sáng tỏ lịch sử. Các huyền thoại phải bỏ lại đàng sau.
Trong bài này chúng tôi chỉ xin trình bày một sự kiện lịch sử thường hay được nêu lên mỗi khi đến ngày lễ giỗ Tổng Thống Ngô Đình Diệm, đó là việc truất phế Bảo Đại. Một câu hỏi đã được đặr ra: Quốc Trưởng Bảo Đại là người đã đưa ông Diệm về lãnh đạo đất nước với sự tin tưởng rằng ông Diệm có thể giúp ông giữ ngôi báu và đưa đất nước qua những ngày đen tối, tại sao ông Diệm lại tổ chức truất phế Bảo Đại?
Vấn đề có lẽ không chỉ đơn giản như vậy. Ngày 29.4.1955 Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng gồm đại diện các đoàn thể và giáo phái đã họp tại Dinh Độc Lập và ra nghị quyết truất phế Bảo Đại, và ngày 30.4.1955 họ đã kéo nhau ra Tòa Đô Chánh Sài Gòn công bố nghị quyết này và hạ hình Bảo Đại xuống. Dân chúng reo hò đá đảo Bảo Đại và ủng hộ Thủ Tướng Ngô Đình Diệm. Nhưng sau đó Thủ Tướng Ngô Đình Diệm lại phải tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý vào ngày 23.10.1955 để truất phế Bảo Đại một lần nữa. Tại sao có chuyện lạ như vậy?
Quốc Trưởng Bảo Đại đang duyệt binh tại Hòa Bình ngày 28.12.1951
Đây là một vấn đề khá phức tạp, chúng tôi sẽ trình bày đầy đủ trong cuốn “Người Mỹ đã xây dựng rồi phá sập chế độ Ngô Đình Diệm như thế nào?”. Ở đây chúng tôi chỉ xin trình bày một số tài liệu chính để đọc giả có thể thấy: Lệnh trất phế Bảo Đại xuất phát từ đâu và tại sao Bảo Đại lại bị truất phế đến hai lần?
“CHÍNH SÁCH TIỀN ĐỊNH”
Trong cuốn “Gọng kìm lịch sử, hồi ký chính trị”, ông Bùi Diễm có viết về việc truất phế Bảo Đại năm 1955 như sau:
“Không ai rõ tại sao ông Diệm phải có thái độ quyết liệt như vậy. Vì dầu sao ông cũng là người phải “trung quân, ái quốc”, trọng đạo quân thần, từng làm quan to trong triều đình Huế, nên không ai cho rằng ông muốn lật đổ Cựu Hoàng. Trái lại, mọi sự nghi ngờ đều đổ vào đầu ông Nhu cả, người được coi là có đủ mọi thủ đoạn đối phó và ứng biến (trong một buổi hàn huyên chuyện cũ với tôi năm 1991, cựu Quốc Trưởng không hề tỏ ý oán hận ông Diện và chỉ nói là ông Diệm đã bị gia đình ảnh hưởng).” (tr. 155).
Ông Bùi Diễm đã từng là Bộ Trưởng Phủ Thủ Tướng dưới thời chính phủ Phan Huy Quát và là một viên chức ngoại giao cao cấp của VNCH, nghe nói ông còn là một “agent” của CIA, nhưng cũng như nhiều viên chức cao cấp khác của VNCH, ông biết rất ít Mỹ đã làm gì trên đất nước và cũng không đọc tài liệu lịch sử để biết chính xác những chuyện Mỹ đã làm, nên ông mới viết như vậy.
Ngày 25.6.1954 ông Diệm về nước giữa cảnh hoang tàn. Ngày 6.7.1954 ông lập chính phủ và ngày 7.7.1954 ông ra mắt chính phủ nên ngày đó thường được gọi là “Ngày Song Thất”.
Thủ Tướng Ngô Đình Diệm
Chỉ hơn một tháng sau, hôm 12.8.1954, Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ đã họp và đưa ra Nghị Quyết số NSC 5029 với đầu đề “Duyệt xét lại chính sách của Hoa Kỳ ở Viễn Đông”, nhận xét về những hậu quả của Hiệp Định Genève và đưa ra một số biện pháp để đối phó. Nghị Quyết cũng đồng ý rằng ông Diệm phải mở rộng căn bản chính trị, soạn thảo hiên pháp và truất phế Bảo Đại một cách hợp pháp
Hôm 20.8.1954, Hội Đồng An Ninh Quốc Gia lại họp và đưa ra Nghị Quyết số NSC 5429/2 ấn định chính sách của Hoa Kỳ sau Hiệp Định Genève. Nghị Quyết nhận định rằng Pháp đã mất ý chí chiến đấu tại Việt Nam và đưa ra kế hoạch để đảm đương vai trò của Pháp trên đất nước này. Nghị Quyết ghi:
“Pháp phải trao trả hoàn toàn độc lập (kể cả quyền rút lui khỏi Liên Hiệp Pháp) cho Việt Nam và ủng hộ một chính phủ bản xứ mạnh. Diệm phải mở rộng căn bản chính phủ, bầu cử quốc hội, soạn thảo hiến pháp và trất phế Bảo Đại một cách hợp pháp.”
(France must grant total independence (including right to withdraw from French Union) to South Vietnam andsupport a strong indigenous government. Diem must broaden the governmental base, elect an assembly, draft a constitution and legally dethrone Bao Dai). [Gravel Edition, The Pentagol Papers, Volume I, Beacon Press, Boston 1971, tr. 303]
Pháp cũng đồng ý với Mỹ như vậy. Ngày 31.7.1954, ông Guy La Chambre, Bộ Trưởng Các Quốc Gia Liên Hiệp của Pháp, tuyên bố cần phải thực hiện ba việc sau đây:
- Thành lập một chính phủ đại diện cho toàn Miền Nam.
- Thực hiện cải cách ruộng đất
- Truất phế Bảo Đại và thành lập chế độ cộng hòa.
Chúng tôi gọi đây là “Chính Sách Tiền Định”, vì nó đã được chính quyền Eisenhower phác họa ngay từ khi ông Diệm mới trở về cầm quyền và được áp dụng một cách chặt chẽ, đẩy chính phủ Ngô Đình Diệm đi theo. Chính sách đó được thu gọn trong những chữ vắn tắt được ghi trong Nghị quyết số NSC 5429/2:
1.- Truất phế Bảo Đại một cách hợp pháp (legally dethrone Bao Dai).
2.- Bầu cử quốc hội và soạn thảo hiến pháp (elect an assembly, draft a constitution).
3.- Mở rộng căn bản chính phủ (broaden the governmental base).
4.- Ủng hộ một chính phủ bản xứ mạnh (a strong indigenous government).
Về việc hình thành “một chính phủ bản xứ mạnh”, tài liệu cho biết chính quyền Eisenhower muốn ông Diệm thành lậpmột chế độ độc đảng theo mô thức Trung Hoa Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch để đối đầu với Cộng Sản. Ông Ngô Đình Nhu đã thành lập tổ chức đó và đặt tên cho nó là “Cần Lao Nhân Vị Cách Mạng Đảng” (Revolutionary Personalist Labor Party). Hai chữ “Nhân Vị” chỉ mới là một ý niệm được dùng để đối với hai chữ "Cộng Sản", nó chưa được xây dựng thành một chủ nghĩa nên không có giá trị thực dụng như chủ nghĩa cộng sản, mặc dầu sau này có nhiều người đã thêm râu ria vào để biến nó thành huyền thoại.
Năm 1955, Đại tá Edward Lansdale rồi Tướng Joseph Lawton Collins đã được Tổng Thống Eisenhower lần lượt đưa qua Việt Nam để thực hiện các kế hoạch nói trên. Trong phạm vi bài này, chúng tôi chỉ nói đến kế hoạch truất phế Bảo Đại. Sở dĩ cả Mỹ lẫn Pháp đã quyết định như vậy vì Bảo Đại lúc đó chỉ lo ăn chơi, không quan tâm gì đến việc nước.
CÁC GIÁO PHÁI VÀ ĐOÀN THỂ TRUẤT PHẾ BẢO ĐẠI
Tháng 4/1955, với sự đồng tình của Bảo Đại và sự yểm trợ của Pháp, lượng Bình Xuyên nổi lên đánh chiếm các vùng quanh và trong Sài Gòn. Trong khi tiếng súng đang nổ ở khu trường Petrus Ký, đường Trần Hưng Đạo, khu Bàn Cờ, cầu Ông Lãnh, v.v., ngày 29.4.1955 đại diện 18 đảng phái, đoàn thể và 29 nhân sĩ có tên tuổi đã đến dự cuộc họp tại Phòng Khánh Tiết của Dinh Độc Lập vào lúc 10 giờ. Ba Tướng Nguyễn Thành Phương, Nguyễn Giác Ngộ và Trình Minh Thế cũng có mặt. Trong số các nhân sĩ, người ta chú ý đến các nhân vật sau đây: Luật sư Hoàng Cơ Thụy, Luật sư Vũ Văn Mẫu, Giáo sư Vũ Quốc Thông, Giáo sư Vũ Quốc Thúc, Luật sư Trần Thanh Hiệp, Cư Sĩ Đoàn Trung Còn (Tịnh Độ Cư Sĩ), Giáo Sư Phạm Việt Tuyền, ông Bùi Quang Nga, ông Nguyễn Hữu Khai, ông Huỳnh Minh Ý, v.v.
Luật Sư Vũ Minh Trân có mặt tại cuộc họp cho biết ông không thấy ông Diệm mà chỉ thấy ông Bùi Văn Thinh, Tổng Trưởng Tư Pháp. Luật sư Hoàng Cơ Thụy liền nói với ông Bùi Văn Thinh rằng để tránh mọi dị nghị, ông không nên có mặt. Ông Thinh liền bỏ đi.
Cuộc thảo luận rất gay cấn, kéo dài từ 10 giờ 30 sáng đến 4 giờ chiều mới biểu quyết xong bản tuyên cáo nguyên văn như sau:
1.- Tuyên bố truất phế Bảo Đại kể từ ngày 29.4.1955.
2.- Tuyên bố Bình Xuyên là phiến loạn.
3.- Giải tán chính phủ Ngô Đình Diệm do Bảo Đại lập ra, cũng kể từ ngày 29.4.1955.
4.- Do sự đòi hỏi của tình thế nghiêm trọng hiện tại, tuyên bố ủy nhiệm chí sĩ Ngô Đình Diệm thành lập một chính phủ lâm thời quốc gia Việt Nam kể từ ngày 29.4.1955 với ba nhiệm vụ:
a) Dẹp phiến loạn Bình Xuyên để duy trì an ninh trật tự;
b) Buộc Quân Đội Viễn Chinh Pháp lập tức triệt thoái khỏi lãnh thổ Việt Nam để kiện toàn độc lập.
c) Tổ chức tổng tuyển cử Quốc Hội để trao trả chính quyền cho quốc dân.
Mặc dầu chưa có ý kiến của ông Diệm, ngày 30.4.1955 Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng đã tổ chức một cuộc họp tại Phòng Khánh Tiết Tòa Đô Chánh Sài Gòn, trình bày diễn biến cuộc họp ngày hôm trước. Có khoảng 200 người tham dự. Ba tướng Nguyển Thành Phương, Nguyễn Giác Ngộ và Trình Minh Thế xuất hiện cùng một lúc đã được dân chúng vỗ tay hoan hô nhiệt liệt. Các đại diện đã thay nhau lên diễn đàn tố cáo Bảo Đại là bù nhìn, không xứng đáng đại diện cho Việt Nam. Sau đó, Hội Đồng công bố bản tuyên cáo đã đọc hôm qua.
Trong không khí sôi sùng sục, một số người đã trèo lên Tòa Đô Chánh gỡ chân dung Bảo Đại ném xuống đường giữa trời mưa.
MỸ RA LỆNH PHẢI LÀM LẠI
Trong khi Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng đang bàn cải về việc phân chia chính quyền, ngày 3.5.1955 Tướng Joshep Lowton Collin, Đại Sứ Đặc Mệnh Toàn Quyền của Tổng Thống Eisenhower tại Sài Gòn, đến gặp ông Diệm lúc 20 giờ và cho biết: Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ nói rằng nếu truất phế Bảo Đại theo yêu cầu của Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng Quốc Gia, tình hình sẽ rất nguy hiểm. (FRUS, 1955 – 1957, Vulume I, trang 359 – 360). Nói một cách khác, Bộ Ngoại Giao muốn truất phế Bảo Đại bằng con đường hợp pháp chứ không phải bằng đảo chánh như Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng đã làm, vì Nghị Quyết số NSC 5429/2 ngày 20.8.1954 đòi hỏi phải truất phế Bảo Đại một cách hợp pháp (legally dethrone Bao Dai). Ông Ngô Đình Nhu đã lưu ý các thành viên trong Hội Đồng về vấn đề này, nhưng phe Tướng Nguyễn Thành Phương và ông Nguyễn Bảo Toàn không tán đồng.
Để đối phó với phe nảy, ông Ngô Đình Nhu đã trình ông Diệm triệu tập hội nghị đại biểu các hội đồng thành phố và thị xã để quyết định. Hội nghị đã họp tại Dinh Độc Lập ngày 6.5.1955, thảo luận và đưa ra một kiến nghị yêu cần Bảo Đại trao toàn quyền cho Thủ Tướng Ngô Đình Diệm ổn định tình thế và triệu tập Quốc Dân Đại Hội trong vòng 6 tháng.
Cuộc tranh luận về việc nên thực hiện nghị quyết của Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng hay thi hành lời khuyến cáo của Mỹ đã trở nên rất gay cấn và kéo dài. Mãi đến ngày 4.10.1955, một Ủy Ban Trưng Cầu Dân Ý gồm đại diện 15 đoàn thể mới được thành lập. Ủy Ban đưa ra kiến nghị yêu cầu truất phế Bảo Đại và suy tôn Thủ Tướng Ngô Đình Diệm. Ngày 6.10.1955, Hội Đồng Chính Phủ quyết định tổ chức trưng cầu dân ý để truất phế Bảo Đại vào ngày 23.10.1955.
Vì lúc đó số người mù chữ còn đông, tài liệu cho biết chính Đại Tá Edward Lansdale là người đã gợi ý dùng hai là phiếu có màu khác nhau để bầu cử, lá đỏ cho ông Diệm, lá xanh cho Bảo Đại. (Colonel Edward Lansdale suggested that Diem should provide two ballot papers, red for Diem and green for Bao Dai). Dựa vào màu sắc của hai lá phiếu này, các vận động viên của ông Diệm đã đưa ra lời hướng dẫn “xanh bỏ giỏ, đỏ bỏ bì” để những người không biết chữ làm theo và dồn phiếu tối đa cho ông Diệm. Kết quả, có 5.838.907 cử tri đã đi bầu trong đó có đến 5.721.735 phiếu truất phế Bảo Đại.
Bảng kết quả trưng cầu dân ý truất phế Bảo Đại
Năm 1982, khi đến thăm California, ông Cao Xuân Vỹ có hỏi Bảo Đại: “Ngài nghĩ thế nào về việc ông Diệm tổ chức trưng cầu dân ý để truất phế Ngài?” Bảo Đại trả lời: “Việc thế thì phải thế thôi. Pháp đã quyết định trước rồi!”. Bảo Đại không hay biết gì việc Mỹ cũng quyết định truất phế ông. Trong cuốn hồi ký “Con Rồng Annam”, Bảo Đại không hề trách ông Diệm về chuyện này. Giả như lúc đó Quốc Trưởng Bảo Đại năng nổ và quan tâm đến đất nước hơn như Quốc Vương Sihanouk của Cambodia chẳng hạn, nước Việt Nam có thể đã xoay theo một chiều hướng khác.
LÀM “ĐỒNG MINH” MỸ RẤT NGHIỆT NGÃ!
Qua những sự kiện được trình bày trên, chúng ta thấy quyết định truất phế Bảo Đại là do Mỹ và Pháp đã đưa ra khi ông Diệm mới về nước. Thể thức truất phế cũng phải được thi hành theo đúng sự chỉ đạo của Mỹ.
Kết quả thu được tuy đúng với sự chỉ đạo của Mỹ nhưng đã tạo ra những sự mâu thuẩn giữa chính phủ Ngô Đình Diệm với đa số thành phần thuộc Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng. Họ cho rằng họ đã bị phản bội nên liên kết với nhau để chống ông Diệm. Mỹ lại biến họ thành một “tổ chức xã hội dân sự”, nuôi dưỡng nó, để khi ông Diệm không làm theo ý muốn của Mỹ, dùng nhóm này để quậy phá. Những thành phần chủ chốt của nhóm này đã tham gia cuộc đảo chánh ngày 11.11.1960. Khi cuộc đảo chánh thất bại, một số đã bị bắt, riêng Luật sư Hoàng Cơ Thụy được Mỹ cho ngồi bó gối trong một bao bố đựng thư lớn, chở ra phi trường Tân Sơn Nhất, đưa lên một máy quân sự và đem ra khỏi Việt Nam hôm 6.12.1960. (Hoàng Cơ Thụy, Việt sử khảo luận, Nam Á, Paris, Quyển 5, tr. 2861).
Làm “Đồng Minh” của Mỹ quả thật vừa phức tạp vừa nghiệt ngã, vì Mỹ thường coi những người được họ yểm trợ hay xử dụng chỉ là công cụ từng giai đoạn, xài xong rồi bỏ.
Ngày 23.10.2015
Ghi nhớ 60 năm ngày truất phế Bảo Đại.
Lữ Giang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét